Wednesday, February 24, 2010

Vượt Biển Một Mình

*Vượt Biển Một Mình*

Nguyễn Trần Diệu Hương

Tác giả, hiện cư trú và làm việc tại vùng San Jose, kể chuyện một mình vượt biển giữa thập niên 80’ và trở thành cô giáo cho những thiếu niên không thân nhân tại trại tị nạn.


Ngày 30 tháng Tư 1975, Saigon sụp đổ. Những gia đình đang ở trong các cư xá sĩ quan, cư xá công chức bị đuổi ra khỏi nhà. Cùng chung số phận, gia đình chúng tôi bị đuổi khỏi mái nhà thân yêu trong cư xá, nơi chúng tôi có một thời nhỏ dại êm ả. Mẹ đưa chúng tôi về căn nhà riêng Ba Mẹ đã xây nên bằng công sức của Ba Mẹ, nhưng nhà này cũng bị tịch thu. Sau hai lần mất nhà, chúng tôi lớn lên như câu ca dao "Còn cha gót đỏ như son, mất cha lăn lóc như lon sữa bò." Ba chúng tôi còn sống, nhưng đang bị đầy ải trong trại cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc. Những ngày u ám đó in hằn vào đầu óc của chúng tôi, khiến chúng tôi trưởng thành sớm hơn tuổi của mình, vì chỉ được xã hội cho nếm mùi cay đắng.

Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học hành thành người. Cũng như rất nhiều người vợ lính khác, Mẹ đảm đang, xuôi ngược nuôi chúng tôi, nuôi Ba trong các trại tù cải tạo từ Bắc vào Nam. Tất cả những điều đó đẩy chúng tôi đến đường cùng, không còn lựa chọn nào khác hơn là phải đưa chính mạng sống của mình đánh cuộc với định mệnh, với đại dương. Còn nhớ thời đó, người dân miền Nam Việt Nam vẫn truyền miệng một câu ngạn ngữ của thời đại "Một là con nuôi mẹ, hai là mẹ nuôi con, ba là con nuôi cá." Cứ thế một hai ba Mẹ lo cho con một mình vượt biển. Khả năng vượt thoát chỉ là một phần ba. Ròng rã gần mười lăm năm dài, từ cuối năm 1975 đến đầu năm 1990, hàng trăm ngàn thuyền nhân (hay theo như cách gọi của UNHCR United Nations High Commissions for Refugees, Cao Uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc là "Boat People") đã đến được bờ bến tự do. Cùng lúc, hàng trăm ngàn thuyền nhân khác gởi thân vào lòng đại dương.

Chưa qua khỏi tuổi thơ, nước mất, nhà tan, chúng tôi, không có thời mới lớn, tự động bước vào tuổi trưởng thành trước những khó khăn của Mẹ, vượt quá nỗi khổ của bà Tú Xương ở thế kỷ mười chín, vừa nuôi chồng trong tù cải tạo, vừa nuôi một bầy con dại còn ở Tiểu học hoặc ở những năm đầu Trung học. Từng đứa một, khi có điều kiện, Mẹ gởi chúng tôi ra đi.

Đến phiên tôi, Mẹ chỉ đưa được tôi ra bến xe liên tỉnh để đi Vũng Tàu. Cả hai mẹ con đều đội nón lá rộng vành để che những giọt nước mắt lã chã rơi không ngừng. Mẹ khóc nhiều hơn những lần đưa các anh em trai của tôi ra đi, vì tôi là con gái duy nhất trong nhà, thân gái dậm trường. Ngồi trên xe đò từ Saigon về Vũng Tàu, trong một góc xe đò, tôi úp nón lên mặt, để che đôi mắt sưng đỏ vì khóc của mình.

Gần một tuần lênh đênh trên đại dương, chỉ có trời và nước, xanh thẫm ban ngày, đen kịt ban đêm, không có cả một cánh chim, tôi nhớ Ba, nhớ Mẹ quay quắt, nhưng vẫn hài lòng với chọn lựa của mình. Hai ngày đầu, như mọi người trong lòng thuyền, tôi bị say sóng, nôn ra cả mật xanh, mật vàng. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu thế nào là "mửa mật". Vậy mà chỉ hai ngày sau, quen dần với cảm giác bập bềnh của con thuyền nhỏ trước lực đẩy của nước ở đại dương, tôi tỉnh táo lại hoàn toàn với đầy đủ sinh lực của "tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu" mặc dù đã hai ngày không ăn uống. Khi thuyền ra hải phận quốc tế, chúng tôi được lên khoang thuyền hít thở không khí trong lành đầy vị mặn của đại dương, hình như có thoang thoảng mùi vị của tự do.

May mắn hơn những người tỵ nạn khác, chúng tôi đi bình yên, không gặp một thuyền nào khác. Trời êm biển lặng vào tháng sáu đầu mùa hè đưa chúng tôi đến thẳng đất liền của Mã Lai sau năm ngày sáu đêm lênh đênh trên biến.

Lên tới đất liền, cùng với chú lái tàu, tôi phải vận dụng vốn liếng tiếng Anh hạn chế đã tích lũy trong những tháng năm chuẩn bị vượt biên để giải thích cho nhân viên Cảnh sát Mã Lai biết chúng tôi là ai, tại sao chúng tôi đặt chân đến đây. Đó chỉ là lần đầu, một khởi đầu kéo dài mãi cho đến bây giờ, phải giải thích tương tự cho rất nhiều người khác nhau thuộc nhiều chủng tộc hiểu tại sao chúng tôi phải bỏ quê hương ra đi để sống đời lưu vong.

Những giờ phút đầu tiên trên đất liền, chúng tôi lại bị "say đất". Quen với trạng thái bồng bềnh, trôi nổi trên mặt nước; khi trở lại mặt đất bằng phẳng, mỗi lần đặt bước chân xuống, tôi có cảm giác mặt đất chao đảo như còn trên mặt sóng nhấp nhô. Sau hai ngày bận rộn với đủ thứ giấy tờ khai báo với cảnh sát địa phương Mã Lai, chúng tôi được đưa ra trại Pulau Bidong, trại tỵ nạn chính thức của Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đặt trên lãnh thổ Malaysia để thành một người tỵ nạn chính thức có số căn cước thuyền nhân, chờ được phỏng vấn định cư ở một nước thứ ba. Lần này, hành trình từ đất liền ra đảo Pulau Bidong vững chắc hơn trên một thuyền khá lớn của UNHCR, có tên là "Blue Dart", khoảng cách lại ngắn, nên chúng tôi không bị say sóng.

Trại tỵ nạn Pulau Bidong đã được xây dựng tương đối đầy đủ khi chúng tôi đến đảo vào giữa thập niên 80, có đủ trường Tiểu học, Trung học cho trẻ em, trường huấn nghệ (Vocational School) cho người lớn, có thư viện, có cả Chùa, Nhà thờ trên "đồi tôn giáo", có Bệnh viện với cái tên khá ngộ nghĩnh và dễ nhớ là "Sick Bay". Chúng tôi được đón tiếp với những thùng mì ăn liền vĩ đại hãy còn bốc khói, giống hệt như những thùng mì Liên Hiệp Quốc phân phàt cho nạn nhân của thiên tai Tsunami ở South Asia cuối năm 2004.

Lần đầu tiên ăn đồ cứu trợ, sống bằng lòng nhân đạo của người khác, một thân một mình ở trại tỵ nạn của một đất nước khác, nước mắt tôi lăn dài, nghĩ đến Ba vẫn đang mỏi mòn trong ngục tù cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc vẫn thiếu ăn, thiếu mặc; nghĩ đến Mẹ đang vò võ một mình ở nhà, chắc là vẫn đang cầu nguyện cho bầy con đã tứ tán mỗi đứa một quốc gia, một phương trời khác nhau, ở tuổi chưa đến hai mươi.

Tưởng là mình đã rất can đảm khi dám chấp nhận cảnh "thân gái dặm trường", không ngờ, ở trại tỵ nạn Pulau Bidong, đến khu vực Cô nhi (Minor Refugees Residential Section), dành cho các em dưới mười sáu tuổi đến trại tỵ nạn một mình, tôi thấy em nhỏ nhất chỉ mới sáu tuổi.

Ở đó, có Hanh, chỉ mới mười một tuổi, thông minh, đầy cương nghị, có Bố đang bị "học tập cải tạo" - như Ba tôi - được Mẹ gởi đi vượt biển một mình trên một thuyền bị hải tặc, mọi người đói lả gần ba ngày trước khi đến được trại tỵ nạn. Ở trại tỵ nạn, cậu bé tuy mới mười một tuổi nhưng có sự khôn ngoan và nét chửng chạc cúa một người ngoài hai mươi học hành chăm chỉ, hết học Anh Văn lại quay qua học Toán, quanh quẩn cả ngày ở trường Trung học trên đảo Pulau Bidong.

Ở đó, có Huyên, một em gái mới mười ba tuổi, cả gia đình mất tích trên biển khi thuyền bị lật. Như một phép màu, Huyên bám được một thùng plastic rỗng, trôi nổi bồng bềnh giữa đại dương gần nửa ngày, trước khi được một tàu tỵ nạn khác đi ngang vớt lên. Người ta đã thấy cô bé Việt Nam nhỏ bé mắt nhắm nghiền, gần như hôn mê bất tĩnh. thân xác mỏng manh như chiếc lá khô, hai tay vẫn còn bám chặt cái thùng nhựa rỗng bồng bềnh trên đại dương.

Ở đó, có Việt, rất thâm trầm, dù mới mười lăm tuổi, nhà cửa bị tịch thu, Ba bị giam ở khám Chí Hòa vì "tội nhà giàu", Mẹ gởi em ra đi với nhà hàng xóm để thoát khỏi tương lai đen tối của giai cấp "tư sản mại bản".

Còn biết bao các em khác nữa. Mười một tháng sau đó ở Pulau Bidong, với vốn liếng Anh ngữ từ những năm ở trường Trung học, và những sách vở của thư viện trên đảo, tôi đã có cơ hội giúp cho UNHCR và cả các phái đoàn Mỹ, Canada, Úc trong việc thông dịch mỗi khi họ đến phỏng vấn thuyền nhân.

Mãi đến bây giờ, tôi vẫn còn cảm giác xót xa khi nhớ lại những lần thông dịch cho những ngưồi đàn bà, con gái Việt Nam bị làm nhục bởi hải tặc trên đường vượt biển, em nhỏ nhất chỉ mới mười hai tuổi. Hồi đó, Cao ủy trưởng Alan ở Pulau Bidong chỉ định tôi chuyên làm công việc thông dịch đàn bà con gái trong các cuộc phỏng vấn các thuyền vượt biển bị hài tặc. Đó là một công việc rất tế nhị và đầy xót xa. Đến một độ nào đó, nỗi đau vượt quá sức chịu đựng, người ta mất cảm giác. Nhiều người nữ thuyền nhân, mặt còn đầy nỗi kinh hoàng nhưng kể lại từng chi tiết ô nhục mà chính mình phải gánh chịu với giọng đều đều, thản nhiên, lạnh lùng như nói chuyện trời mưa, trời nắng, trong khi chính tôi và cô May, Cao ủy của UNHCR đã giọt ngắn giọt dài. Mỗi lần dịch hay viết xong một hồ sơ tàu tỵ nạn bị cướp, tay áo tôi ướt đẫm vì nước mắt. Tôi vẫn tự hỏi thủ phạm trực tiếp cho nỗi đau này là hải tặc Thái Lan, thủ phạm gián tiếp thực sự là ai?

Đó là khoảng thời gian rất bận rộn với công việc thông dịch ban ngày giúp cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn. Ban đêm, tôi còn dạy thiện nguyện cho các em , chỉ nhỏ hơn tôi vài tuổi, ở trường Trung học trên trại Tỵ nạn. Trường chỉ dạy hai môn Anh văn và Toán. Sách học là những quyển sách đơn giản tương đương trình độ của bộ "English for Today" quyển I đến quyển III. Trước ngày ra đi, tôi chỉ mới học xong quyển IV ở Việt Nam , nhưng nhờ làm việc, tiếp xúc nhiều với các nhân viên UNHCR, và bằng long thương yêu các em chân thành như em ruột của chính mình, tôi mang hết kiến thức và hiểu biết của mình truyền lại cho các em, mặc dù tôi chưa hề được qua một trường lớp nào về Sư phạm. Chúng tôi, những người dạy thiện nguyện ở trường Trung hoc, vẫn đùa với nhau là mình đã theo một "trường phái sư phạm mới", lối dạy "mèo nhỏ tha chuột lớn".

Có lần, giải nghiã cho các em một từ mới, "dignity" - có nghĩa là phẩm giá - tôi không biết làm thế nào để giảng cho các em hiểu, đành viết lên bằng câu thí dụ "We lost everything, but never lose our dignity". Viết đến đó, tự dưng nước mắt tôi lăn dài, các em ở tuổi mười bốn, mười lăm lúc đó cũng khóc theo. Những giọt nước mắt đó vẫn còn đọng trong tâm khảm tôi cho đến bây giờ, cùng có niềm tin ở một thế hệ trẻ lưu vong có đầy đủ đầu óc và trái tim Chắc chắn, các em học sinh lúc đó, trên bước đường tha hương sau này, sẽ nhớ và hiểu nghiã chữ "dignity" hơn ai hết, và các em sẽ sống xứng đáng với lòng kỳ vọng của thân sinh các em, khi Ba Mẹ các em đã phải đứt ruột gởi con ra biển một mình.

Mỗi tuần hai lần, tàu "Blue Dart" của UNHCR cho nước ngọt, mì gói, gạo và thực phẩm tươi gồm gà và rau cải, đôi khi còn có dưa hấu hay thơm, vào cho thuyền nhân. Hầu hết chúng tôi đến trại tỵ nạn chỉ với một bộ quần áo dính trên người. Chúng tôi được phát áo quần từ một kho áo quần "second hand", tương tự như áo quần cũ bán trong Goods Will ở Mỹ. Áo quần thường rộng thùng thình, quá khổ, nhưng chúng tôi tự sửa lại đúng với kích thước của mình. Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đã rất là chu toàn trong việc bảo vệ và chăm lo cho những người tỵ nạn chính trị, Đến lúc được chuyển qua trại chuyển tiếp Bataan ở Philippines để được hướng dẫn về đời sống văn minh của Mỹ trước khi chính thức đến Mỹ như một người tỵ nạn, chúng tôi được huấn luyện chương trình buổi sáng, buổi chiều làm "Teacher Aid" cho các giảng viên người Phi. Ở đó, đời sống đầy đủ hơn, và lạc quan hơn vì chúng tôi biết chắc chắn ngày mình được định cư ở Mỹ. Và cũng ở đó, tôi có thì giờ tự học nhiều hơn cho chính mình, chuẩn bị một thời kỳ gian nan khác, một khởi đầu từ con số không ở quê hương thứ hai. Một vài lần được về chơi ở Manila (thủ đô của Philippines), những chuyến du lịch đặc biệt bằng xe bus dành riêng cho các "Teacher Aid", chúng tôi vẫn ngậm ngùi thương cho sự lạc hậu của đất nước mình ngay cả khi so sánh với các nước Á châu khác như Philippines.

"Nỗi buồn nhược tiểu" đó càng tăng cao khi trên đường bay qua Mỹ, tôi được dừng chân hai ngày ở Tokyo - Nhật, thủ đô của nước Á châu giàu mạnh nhất sau khi nếm bài học xương máu với hai cột khói trắng hình nấm khổng lồ ở Hiroshima và Nagasaki cuối thế chiến thứ hai. Tokyo văn minh sáng rực ánh đèn ban đêm tương phản với Saigon lạc hậu tranh tối, tranh sáng, Nước mắt tôi lại chảy xuống cho sự thụt lùi của quê hương đã bị bỏ lại sau lưng.

Tôi đến Mỹ một tuần trước lễ Giáng sinh, cùng một thuyền nhân Việt Nam khác, hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng được giao từ UNHCR, giúp đoàn người tỵ nạn gồm 85 người kể cả một vài người Lào và Cambodia cũng trốn chạy khỏi quê hương như chúng tôi. Giữa những hành khách Mỹ tự tin, cao to, với nhiều hành lý cồng kềnh về nước đoàn tụ với gia đình nhân dịp Giáng sinh và Tết dương lịch, rất dễ nhận ra những người tỵ nạn nhỏ bé, mảnh mai mắt mở to vui mừng lẫn ngơ ngác, chỉ có hai bàn tay trắng với những túi xách của UNHCR và IOM (International Organization for Migration), chỉ có giấy tờ nhập cư vào Mỹ và giấy tờ tùy thân .

Được chuẩn bị đầy đủ với gần 6 tháng học về "American Culture Orientation" ở trại chuyển tiếp Bataan, Philippines, với trình độ Anh văn tương đối sau một năm tiếp xúc và làm thông dịch viên cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn LHQ, tôi không đến nỗi bị lâm vào cảnh "mán về thành", nhưng thật sự đời sống ở Mỹ khác xa với đời sống ở quê nhà như mặt trời với mặt trăng, như ngày với đêm.

Hình ảnh của Ba với mái tóc bạc trắng ở tuổi năm mươi trong lao tù cải tạo, hình ảnh Mẹ với đôi mắt buồn trong những ngày chuẩn bị gởi chúng tôi ra đi là nguồn nghị lực không bao giờ cạn, tiếp sức cho chúng tôi trong thời gian chân ướt chân ráo ở quê hương thứ hai.

Từ nhiều trại tỵ nạn ở nhiều nước khác nhau: Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines, anh chị em chúng tôi đến Mỹ trong nhiều thời gian khác nhau, được trùng phùng, như trăm sông đổ về biển, và mang sức sống của tuổi hai mươi lao vào đất nước của tự do và cơ hội. Một người bạn cũ của Ba, qua Mỹ từ năm 1975, đang làm ở tổ chức thiện nguyện USCC, giúp tôi có được trợ cấp một lần là 650 dollars dành cho người tỵ nạn mới đến , bác viết cho tôi một reference letter và từ đó " I'm on my own way". Bác cũng giới thiệu cho tôi đến tìm việc làm ở một vài nơi. Trời thương, "thánh nhân đãi kẻ khù khờ", tôi được nhận vào làm full time ở một công ty lớn chỉ hai tuần sau ngày đến Mỹ. Lúc đó là đầu tháng giêng, giữa mùa Đông ở Mỹ, trời lạnh buốt, buổi sáng tôi thức dậy từ sáu giờ ba mươi, trời còn tối, ra đứng chỗ xe bus ở đầu đường, trời lạnh cóng, dưới 40 độ Fahrenheit, tôi phải mặc ba bốn lớp áo, nhưng áo quần cũ chị em chúng tôi đã mua từ Goods Will để vừa với túi tiền của mấy chị em lưu lạc quê người, chỉ có hai bàn tay trắng, với lòng tin của Ba Mẹ đặt ở mỗi chúng tôi. Một tuần sau, chịu không nổi cái lạnh gần đông đá , từ 32 đến 39 độ Fahrenheit của mùa đông thứ nhất ở Mỹ, tôi dùng cái paycheck đầu tiên của mình thuê người dạy lái xe và dốc hết tiền trợ cấp một lần cho người mới đến mua một cái Toyota Celica đã mười bốn tuổi, để đi học và đi làm. Đời sống lúc đó, còn nhỏ, là một hình tam giác với ba đỉnh là nhà, trường học và sở làm không hề có giải trí, không có cả thời gian để buồn và nhớ nhà. Đến Mỹ muộn màng, sau gần mười năm miền Nam sụp đổ, biết thân phận mình là "trâu chậm", chúng tôi lao đầu vào học, không dám để phí thêm một giờ phút nào. Mùa hè, học phí cao hơn, tôi chỉ ghi danh theo học một lớp, và làm part time cho một trạm bán xăng ở gần nhà Nghĩa là lúc đó, tôi đi làm full time, đi học full time quanh năm. Nhiều lúc quá mệt mỏi, tôi lại tự nâng đỡ tinh thần mình bằng câu nói cửa miệng của người Mỹ "No pain, no gain", và nhớ đến kỳ vọng của Ba Mẹ đã đặt ra cho chúng tôi. Buồn nhất là những lần bất chợt nghe được những câu hát rất đúng với tâm trạng của mình: "Ai trở về xứ Việt, nhắn giùm tôi người ấy ở trong tù .....", nghĩ đến Ba, nước mắt tôi vẫn lăn dài, và tự bảo lòng mình phải cố gắng học giỏi hơn để Ba Mẹ vui hơn, đủ nghị lực sống trong đời sống bị khủng bố tinh thần thường xuyên ở quê nhà.

Có lần được phát biểu cảm tưởng với thời gian ba phút trong một lần nhận học bổng, tưởng là sẽ cảm ơn đủ tất cả mọi người và hứa với "scholarship foundation" sẽ cố gắng nhiều hơn, nhưng tôi chỉ nói được gần hai phút: - Xin cảm ơn tất cả thầy cô đã có công dạy dỗ tôi, xin cảm ơn Hội đồng trao tặng học bổng cho tôi. Xin tri ân đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang và cung cấp một đời sống tự do, no đủ cho tất cả những người tỵ nan, lưu vong. Vinh dự hôm nay xin được dành riêng cho tất cả những người đã nằm xuống cho chúng tôi có được ngày hôm nay, và xin đặc biệt danh riêng cho Ba tôi, người vẫn còn đang bị đày ải trong lao tù Cộng sản vì đã ở trong một quân đội bảo vệ tự do, xin được dành riêng cho Mẹ tôi, người đã rất chu toàn trong việc nuôi dậy con cái một mình.

Một phút còn lại, tôi không nói được vì cử tọa trước mặt đã mờ đi sau màn nước mắt, mùi vị đắng cay sau năm 75 ở quê nhà vẫn kéo về với đầy nỗi xót xa, ngay cả trong giờ phút ngọt ngào nhất. Một thầy giáo người Mỹ gốc Ba Lan đã tỵ nạn Cộng sản từ cuối thập niên 60, dạy tôi từ năm đầu Đại học, hiểu rất rõ tâm trạng của một người tỵ nạn, đã lên diễn đàn giúp tôi hoàn tất lời phát biểu. Lần đó, tôi được đặc cách đề cử trực tiếp cho học bổng niên khoá kế tiếp, mà không phải qua những thủ tục bình thường. Món tiền tuy không lớn, cũng đủ để trang trải chi phí sách vở, học phí, ăn ở cho một năm học, là một yểm trợ vật chất lớn lao cho tôi trong ba năm đầu chân ướt chân ráo ở quê người. Có những điều hằn sâu trong ký ức, lúc nào cũng tưởng như mới vừa xẩy ra, như chuyện say sóng đến độ "mửa mật" của những ngày lênh đênh trên đại dương vẫn ám ảnh tôi không nguôi. Cho nên, có lần được chọn là "Employee of the year" được tặng vé cho một chuyến đi cruise trên biển một tuần cho hai người, nhớ lại cảm giác đắng nghét ở miệng, cảm giác mất thăng bằng của những ngày mới đặt chân lên đất liền, tôi đã nhường lại phần thưởng đó cho "the runner up" trước con mắt ngạc nhiên của mọi người làm cùng chỗ. Đó không phải là điều duy nhất người bản xứ không hiểu những người tỵ nạn, những người Mỹ gốc Việt lưu vong. Họ cũng không hiểu tại sao rất nhiều người Việt Nam nhỏ bé ốm yếu vẫn đội mưa đội gió hàng giờ giương cao những tấm biểu ngữ "Human Right for VietNam", "Freedom for VietNam" ở một góc đường nào đó trong đời sống lạnh lùng, đầy tất bật của đất nước Hoa kỳ.

Sau khi đã ổn định, - đã có một "career" đàng hoàng thay cho cái "job" để kiếm sống - có thời tôi đi dạy thiện nguyện cho một trường Việt ngữ ở điạ phương, học sinh là các em teenagers. Dù cùng tuổi nhưng học trò của tôi bây giờ vô tư, ngây thơ, khác xa các em trong trại tỵ nạn chững chạc, trưởng thành trước tuổi. Ở trường Việt ngữ, ngoài bài giảng từ sách của trường, thì giờ còn dư, chúng tôi giảng trích đoạn từ tác phẩm "Mùa hè đỏ lửa" của nhà văn Phan Nhật Nam, từ bài thơ bất khuất "Nếu ai hỏi" của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện để các em hiểu rõ hơn giá trị của tự do, và biết yêu thương cha mẹ hơn, biết ơn cha mẹ các em đã hy sinh rất nhiều để các em có được ngày hôm nay.

Đời sống ở Mỹ vốn tất bật, nhưng một phút bình lặng nào đó của tâm hồn, dù đang bị kẹt xe trên một xa lộ xe cộ tất tả ngược xuôi hay đang ở trong một cuộc họp ở sở, đầu óc tôi vẫn lang thang về với quê nhà, và buồn thay, bao giờ cũng vậy, mùi vị đắng nghét như đang bị "mửa mật", mùi vị chua cay của một thời vẫn hiện về, rõ ràng, mồn một như chuyện hôm qua.

Và có một lần "chuyện hôm qua" càng rõ nét hơn. Đến thăm Massachusetts Institute of Technology (MIT) nổi tiếng về chuyên ngành Toán và Kỹ thuật, đang ngồi chờ người bạn ở cafeteria của trường, bỗng một sinh viên người Á châu đi qua, đi lại trước mặt tôi nhiều lần. Sau cùng, anh ta dừng lại, lịch sự hỏi bằng tiếng Mỹ: - Xin lỗi, chị có phải là cô Thuyên ở trường Trung học Pulau Bidong năm 1988 không?

Tôi trả lời bằng tiếng Việt:

- Đúng rồi, em có thể nhắc cho tôi nhớ em là ai không?

Người thanh niên vui mừng, rồi bằng một thứ tiếng Việt rõ ràng và lễ độ, anh ta trả lời:

- Em là Hanh đây chị, em học cùng lớp với Huyên và Việt ở Pulau Bidong. Chị nhớ em không?

Hanh vẫn nhận ra tôi sau mười lăm năm không gặp, nhưng tôi thì không thể nhìn ra được anh thanh niên cao lớn chững chạc trước mặt mình là cậu bé đen nhẻm, chững chạc, chăm học ở trại tỵ nạn năm xưa, Hanh lúc đó đang ở năm cuối của chương trình Tiến sĩ Toán, như ước mong ngày nào em đã trình bày trong một giờ thực tập nói tiếng Anh ở lớp học nhỏ xíu, mái lợp tôn thô sơ giữa đảo Pulau Bidong. Hanh kể cho tôi nghe về chuyện em đến Mỹ một mình ở tuổi mười hai, cùng với một nhóm ngườI Việt Nam tỵ nạn đặt chân đến Mỹ ở phi trường San Francisco, Hanh đổi máy bay về Massachusetts. Đi một mình, dưới mười lăm tuổi, nên Hanh được một cô Stewardess đích thân dắt lên máy bay trước.

Ra đón cậu bé tỵ nạn Việt Nam ở phi trường Logan Boston - là đại diện của một tổ chức thiện nguyện và cha mẹ nuôi của Hanh. Đó là một gia đình ngươi Mỹ gốc Tiệp Khắc, qua Mỹ tỵ nạn từ thập niên 60s. Dù chưa bao giờ có ý định xin con nuôi, nhưng thấy Hanh là một cậu bé mới mười một tuổi vượt biển một mình, không có thân nhân, nên họ muốn đưa Hanh về nuôi. Cả hai ông bà đều dạy Trung học. Ông dạy Toán, bà dạy Home Economics (tương tự như môn Nữ công gia chánh ở Việt Nam). Người con duy nhất đi học xa, ông bà vẫn làm việc thiện nguyện ở một Nhà thờ Tin lành vào cuối tuần. Khi thấy tên Hanh, một em nhỏ tỵ nạn Việt Nam mới mười một tuổi, không có thân nhân ở Mỹ, được nhà thờ tìm người bảo trợ, họ xin nhận Hanh làm con nuôi. Vẻ chín chắn cùng sự khôn ngoan trước tuổi của Hanh đã chinh phục được lòng thương yêu của bố mẹ nuôi người Mỹ từ lúc đầu. Vì cả hai ông bà đều là nhà giáo, Hanh lại có căn bản về cả tiếng Anh lẫn học lực, lại chăm chỉ học hành nền em được vào thẳng lớp bảy như các học sinh bản xứ mà không gặp trở ngại nào.

Lên Trung học, Hanh tốt nghiệp thủ khoa Trung học. Với sự hướng dẫn quý báu của cha mẹ nuôi, với thành tích học tập xuất sắc trong bốn năm Trung học, cậu bé Hanh tỵ nạn năm xưa nhận được học bỗng toàn phần của MIT, trong niềm hãnh diện của cha mẹ nuôi ở Mỹ lẫn cha mẹ ruột ở Việt Nam. Giữa thập niên 90s của thế kỷ hai mươi, ba mẹ sinh thành cùng hai em của Hanh được qua Mỹ theo chương trình nhân đạo HO. Vậy là Hanh có đến hai ông bố, hai bà mẹ, và hai gia đình cùng ở tiểu bang Massachusetts, trong hai thành phố kế cận nhau. Không muốn làm mất lòng gia đình nào, và để được tập trung học tập, Hanh vào nội trú trong MIT. Mổi thứ bảy về với cha mẹ ruột, ăn món ăn Việt Nam do mẹ nấu, nghe ba kể về những đọa đày ông phải gánh chịu trong các trại "cải tạo". Và mỗi chủ nhật, về lại căn phòng thân thuộc mà cha mẹ nuôi đã dành cho Hanh từ ngày cậu bé Việt Nam, da còn đậm màu nắng gió của trại tỵ nạn, chân ướt, chân ráo đến Mỹ. Căn phòng dù không còn được dùng thường xuyên, nhưng trong closet vẫn còn treo hai bộ áo quần kỷ niệm của Hanh, một bộ Hanh mặc khi mới đến Mỹ được người bảo trợ ra đón, và bộ kia là bộ áo quần đầu tiên Hanh được bố mẹ nuôi mua cho. Ở một góc bàn học, vẫn còn cái lọ thủy tinh có cắm hai lá cờ nhỏ, một sọc trắng đỏ với năm mươi ngôi sao của Mỹ, một màu vàng với ba sọc đỏ của Việt Nam. Trên tường vẫn còn hình Hanh năm mười tám tuổi, chững chạc trong áo mũ và dây choàng thủ khoa (valedictorian) ngày tốt nghiệp Trung học.

Một chi tiết rất cảm động trong câu chuyện của cậu bé tỵ nạn ở Pulau Bidong năm xưa là hồi mới đến Mỹ, mỗi lần được cho kẹo chocolate, Hanh chỉ ăn một phần nhỏ và để dành hầu hết kẹo để gởi về Việt Nam cho hai em và cho các bạn. Điều "bí mật" đó bị phát hiện khi hai ông bà Mỹ thấy cậu con nuôi ăn uống rất chừng mực từ tốn nhưng luôn luôn xin được mua thêm chocolate. Kẹo "để dành" thường được Hanh gói cẩn thận trong những túi nylon dán kín để trong một góc tủ áo quần. Halloween đầu tiên ở Mỹ, đi học về, làm xong bài vở, trời vừa sụp tối, Hanh xin phép ba mẹ nuôi cho đi xin kẹo. Cậu bé miệt mài đi bộ một mình trong thời tiết se lạnh đầu mùa thu ở miền Đông Bắc trên bốn năm con đường, gõ cửa từng nhà xin kẹo. Kêt quả rất khả quan, sáng hôm sau Hanh gởi được một thủng kẹo mười hai lbs (khoảng 5kg) về Việt Nam mà cước phí còn cao hơn cả tiền mua kẹo. Có nguồn gốc là người Tiệp Khắc, một thời đã phải sống dưới chế độ Cộng sản, bố mẹ nuôi của Hanh hiểu ngay mọi chuyện. Và ông bà càng quý Hanh, cậu bé Việt Nam tuổi còn nhỏ nhưng tấm lòng đã rất lớn.

Đến phiên tôi, tôi cũng kể cho Hanh nghe giòng đời đã đẩy đưa tôi từ trại tỵ nạn năm xưa đến California như thế nảo. Có nằm mơ, tôi cũng không tưởng tượng nổi mình gặp lại được cậu học trò đen nhẻm vì vị mặn của gió biển ở Mã Lai, có đôi mắt sáng nhưng lúc nào cũng buồn ở trường Trung học trên đảo Bidong ngày nào. Ước gì tôi cũng gặp được Huyên và Việt, cũng như đã hội ngộ rất bất ngờ với Hanh ở một góc trường MIT ở miền Đông Bắc nước Mỹ. Nhưng dù chưa hay không có dịp tái ngộ với Huyên và Việt, tôi vẫn tin hai em đã rất thành công như Hanh, chứng minh mình có thể làm được nhiều điều, chẳng hạn như chuyện học hành, mà có một thời ở trong nước , sau tháng 4/75, nhà cầm quyền không cho phép mình làm.

Tất cả chúng tôi dều giống nhau ở chỗ phải xa nhà, bỏ đất nước ra đi một mình, dù lúc nào trong tâm tưởng của chúng tôi cũng có một vị trí trang trọng cho quê hương chôn nhau cắt rốn đã phải bỏ lại sau lưng. Chúng tôi đã phải mang cả sinh mạng của mình ra đánh cuộc với định mệnh, với đại dương; một cái giá không một khoản tiền nào, dù lớn đến đâu có thể mua được. Những được mất với cuộc đời hãy còn ở trước mặt, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ cố gắng không ngừng để xứng đáng với cái giá mình phải đánh đổi.

Chia tay Hanh hôm đó, tôi mang theo câu nói của Hanh với khuôn mặt rất nghiêm trang, già trước tuổi, và vẫn với đôi mắt buồn xa vắng như lần đầu tiên tôi gặp em ở trường Trung học trên đảo tỵ nạn:

- Điều em vui nhất là đã đền đáp được phần nào ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ ruột và ân tình cưu mang của bố mẹ nuôi. Em vẫn cố gắng hết mình, cố gắng đến hết cuộc đời để luôn làm cho cả Ba Mẹ lẫn Mommy, Daddy của em vui . Điều duy nhất không chắc em có làm được hay không, là "gánh sơn hà" mà đôi lúc Ba em và các bác, các chú cùng thời vẫn nửa đùa nửa thật là đã trao lại cho thế hệ của mình.

Hanh dừng một chút rồi hỏi một câu mà đến bây giờ tôi vẫn chưa biết cách trả lời:

- Gánh sơn hà nặng lắm một mình em hay cả hai chị em mình không thể nào gánh nổi! Chị ơi, làm thế nào để cả thế hệ của mình đủ sức gánh nổi sơn hà hả chị?

Câu hỏi đó cứ quanh quẩn trong tôi và chắc là phải còn lâu, lâu lắm, tôi mới biết được câu trả lời chính xác Nhưng tôi tin là chỉ cần một phần mười của một thế hệ Việt Nam (cả ở hải ngọai lẫn trong nước) biết đoàn kết, có nhiệt tâm gánh vác non sông với chí khí của Trần Quốc Toản, với lòng yêu nước của Nguyễn Thái Học và với đầu óc của Lê Quý Đôn thì gánh sơn hà sẽ nhẹ nhàng như cái cặp đi học rất thân thuộc của một thời đèn sách.

(Viết cho Lan Hương, Tiến, Tuấn và những thuyền nhân "đi biển" một mình).

---

Tuesday, February 23, 2010

SAN DIEGO: LỄ CÚNG TỔ TIÊN VÀ CHÀO CỜ ĐẦU NĂM, XUÂN CANH DẦN 2010













SAN DIEGO, USA: LỄ CÚNG TỔ TIÊN VÀ CHÀO CỜ ĐẦU NĂM, XUÂN CANH DẦN 2010

San Diego: Chủ Nhật 21/02/2010 nhằm ngày mùng 08 Tết Âm Lịch, Năm Canh Dần, Hiệp Hội Người Việt San Diego đã phối hợp với Liên Hội Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa San Diego, Hội Cao Niên San Diego long trọng tổ chức Lễ Cúng Tổ Tiên và Chào Cờ Đầu Năm, Xuân Canh Dần, tại Nhà Cộng Đồng, sau khi Hội Chợ Tết buộc lòng phải hủy bỏ vì những cơn mưa bão lớn kéo đến San Diego và nguyên tiểu bang California đúng vào những ngày tổ chức Hội Chợ Tết.

Sau Nghi Lễ Chào Cờ và Cúng Tổ Tiên Đầu Năm là phần Múa Lân và một Chương Trình Văn Nghệ Mừng Xuân phong phú, vui tươi, đặc sắc kéo dài cho đến chiều tối.

Kính chuyến đến quý vị một số hình ảnh do Ông Lê Công Nghiệp thực hiện.

Trân trọng,

Trần Sơn

---

Sunday, February 21, 2010

Vài hình ảnh Tết Canh Dần, 20-2-2010, Frankfurt, Tây Đức






















Tết Canh Dần tại Frankfurt am Main, West Germany, 20.02.2010.

---

Wednesday, February 10, 2010

TẠI SAO BIỂU TÌNH UNESCO Ở BA LÊ KHÔNG CÓ CỜ VÀNG ?

TẠI SAO BIỂU TÌNH UNESCO Ở BA LÊ KHÔNG CÓ CỜ VÀNG ?

Đúng ra, nhìn những tấm hình trong slide show này, tôi phải cảm thấy phấn khởi. Như bao nhiêu lần khác. Được xem hình ảnh đồng bào mình đi biểu tình chống bọn CSVN. Ở bất cứ đâu. Từ Houston. Sang San Francisco. Từ Luân Đôn. Vượt đại dương sang đến Canberra, Sydney, Melbourne. Vào bất cứ dịp gì. 30 tháng Tư. "Duyên Dáng Việt Nam". Truyền hình VTV4.

Cứ được đọc đến. Cứ được xem hình. Là trong lòng lại dâng lên một niềm vui nhè nhẹ.

Nhưng sao lạ, lần này, nhìn những tấm ảnh của cuộc biểu tình trước UNESCO này, một cảm giác bất an, sau đó trở thành bất bình, từ từ chiếm ngự.

Có phải tại số người tham dự ít ỏi không ? Nhìn hình thì chỉ thấy trên dưới có lẽ chỉ hơn 20 người. Email sang Paris hỏi người bạn sao lần này có vẻ "hơi thưa thớt". Anh cho biết thứ nhất là vào giữa giờ làm việc, thứ hai là ban Tổ chức thay đổi giờ giấc nên bà con lẫn lộn hoặc hoang mang, và thứ ba, ban Tổ chức tung Thông cáo ra quá trể.

Nhưng nghĩ cho tới thì cũng không phải vậy. Không phải là tại ít người mà lòng không vui. Há đã chẳng có những phụ huynh học sinh đơn thân độc mã đến trường học của con em để yêu cầu nhà trường phải tháo bỏ lá cờ máu xuống khỏi assembly hall đó ư? Những lần như thế, chẳng những rộn rã niềm vui mà còn cảm thấy thán phục những cá nhân đó.

Thế thì tại sao lần này, nhìn những tấm hình này, lại thấy bất an ? Tự hỏi. Tự thắc mắc. Hình như có một điều gì thiếu sót trầm trọng lắm thì phải.

Hai mươi giây sau, tôi như người từ bóng tối bước ra vùng ánh sáng, nhìn rõ sự kiện như ban ngày. BIỂU TÌNH CHỐNG BỌN VIỆT CỘNG MÀ SAO KHÔNG THẤY MỘT LÁ CỜ VÀNG NÀO HẾT VẬY ?

Không ! Nói như thế cũng không hoàn toàn đúng. Phải nói là SAO CHỈ CÓ MỘT HAI NGƯỜI CÓ TRÊN TAY LÁ QUỐC KỲ VNCH ? Mà nếu quan sát các tấm hình cho kỹ thì rõ ràng đó là do sự năng động của những cá nhân tự động mang theo quốc kỳ. Không phải do ban Tổ chức cung cấp. Chung quanh, đàng trước, đàng sau những người có vẻ cầm đầu cuộc biểu tình thì chỉ thấy có loa phóng thanh và một vài biểu ngữ.

TUYỆT NHIÊN KHÔNG THẤY HỌ CÓ MỘT LÁ CỜ VÀNG NÀO.

Lai email sang hỏi người bạn bên Pháp. Được trả lời "Ban Tổ chức cho hay tại có du sinh tham dự nên họ không muốn có cờ quốc gia, sợ các du sinh dị ứng".

Tự dưng nghe thấy cái luận điệu này quen quen. Xem kỹ lại những tấm hình một lần nữa xem. Thôi đúng rồi, có lẽ tuổi cũng đã lớn nên mắt đâm ra quáng gà. Mấy tấm bảng trưng bày hình ảnh và tiểu sử của các nhà đối kháng vừa mới bị tuyên án, rõ ràng có đề hai chữ VIỆT TÂN ở bên trên.

Như vậy là mọi điều đã được giải thích rồi còn gì nữa. Ở xa mình không biết chứ còn ở địa phương, đồng hương quá tận tường những người mệnh danh là ban Tổ chức cũng chỉ là thành phần tranh đấu cuội chứ có ai đâu xa lạ. Làm cho có hình thức để báo cáo. Để phỉnh lừa các chính khách ngoại quốc hời hợt, cả tin rằng họ đại diện cho người Việt chống Cộng ở hải ngoại. Cho nên bà con không muốn tham dự là vì vậy.

Còn chuyện BIỂU TÌNH CHỐNG CỘNG MÀ KHÔNG MANG MỘT LÁ CỜ VÀNG "để kêu gọi du sinh tham dự" thì cũng phù hợp với chủ trương TIẾP CẬN của họ mà thôi.

Nhưng họ làm như thế để được chuyện của ho. Trong khi đó, công cuộc chung của chúng ta sẽ bị ảnh hưởng ra sao ? Đồng hương ở những nơi khác, còn quan tâm đến chuyện nước non sẽ nghĩ thế nào khi thấy một cuộc biểu tình mang tính cách quan trọng như thế, ngay giữa thủ đô Ba Lê, lại chỉ thưa thớt với đôi ba chục người ? Bọn CSVN sẽ hớn hở ra sao khi lợi dụng cơ hội này để tuyên truyền trong nước là "người nước ngoài bây giờ mấy ai quan tâm đến những cuộc xuống đường lẻ tẻ " ?

Bởi vậy sách sử thường nói tội bán nước đã nặng, tội thông đồng với giặc cũng chẳng đáng được giảm khinh !

Trịnh Thiện Tâm

Slide show "biểu tình" 06.02.2010 tại Paris:

http://picasaweb.google.fr/cadao75/BieuTinhTruocUnesco622010?authkey=Gv1sRgCIfvgsmm6KvBDw#

---

Monday, February 08, 2010

Hiện tượng "Trăm hoa đua nở" kiện các cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng Sản: Chúng ta phải làm gì?

Hiện tượng "Trăm hoa đua nở" kiện các cộng đồng người Việt tỵ nạn CS: Chúng ta phải làm gì?

Sau khi đọc thông báo khẩn của Cộng đồng người Việt Tự do Victoria về chiến dịch vận động đóng góp "1 Đồng Cho Công Lý" của Ủy ban Pháp lý CĐNVTD-VIC và thực hiện cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Văn Bon, Chủ tịch CĐNVTD-VIC liên quan đến vấn đề này, tôi chợt nhớ lại những gì đã xảy ra cho các cộng đồng người Việt tỵ nạn khác trên thế giới.

Cách đây hơn 5 năm (2004) Cộng đồng người Việt Tỵ nạn Cộng sản ở Hoà Lan vì tổ chức biểu tình phản đối văn hóa vận của CSVN nên đã bị người tổ chức đêm văn nghệ khởi tố với lý do những cuộc biểu tình đó đã gây thiệt hại tài chánh cho họ. Đồng bào tại địa phương đã tổ chức những bữa ăn gây qũy, cộng với sự hỗ trợ tinh thần lẫn vật chất của đồng bào khắp thế giới, nên Ban Chấp hành mới có tiền ra tòa để rồi chiến thắng vẻ vang về mặt pháp lý. Điều quan trọng hơn hết là Cộng đồng đã bảo vệ được chính nghĩa của người Việt tỵ nạn ở Hoà Lan để cho lá cờ vàng ba sọc đỏ vẫn tiếp tục bay cao trong những cuộc biểu tình tại Hoà Lan nói riêng và khắp thế giới nói chung.

Tiếp theo là chuyện Hội người Việt Tỵ nạn Cộng sản tại Hamburg và vùng phụ cận cũng bị người tổ chức văn nghệ làm đơn kiện về "Bản Tuyên cáo ngày 9/11/09 của Hội NVTNCS tại Hamburg kêu gọi tẩy chay đêm văn nghệ VN By Night 24/12/09". Phiên tòa xử ngày 24/12/09 đã bắt kẻ kiện phải bồi thường chi phí tiền tòa cho phía bị cáo buộc.

Rồi một vụ kiện khác xảy ra ở Mỹ: một nữ Phật tử dưới tuổi thành niên đã vu cáo một vị sư có những hành vi "khuấy nhiễu tình dục" trong lúc cô mở tủ lạnh trong nhà bếp tại chùa. Kẻ đâm đơn kiện đã bị thua vì những bằng chứng và hình ảnh cho thấy ở thời điểm đó những vật dụng nhà bếp và tủ lạnh đã được... gỡ sạch để tân trang nhà bếp! Nếu như bếp nhà chùa lúc đó không đem sửa chữa thì vụ kiện hẳn sẽ kéo dài và gây biết bao tổn phí kiện tụng. Điều đáng lưu tâm là dẫu rằng toà án đã tuyên xử vị sư nọ vô tội, nhưng cách đây không lâu, tôi vẫn đọc được trên một diễn đàn lá thư email của một người vẫn còn tiếp tục bôi nhọ vị tu hành.

Điều này cho thấy những người muốn phá hoại các tổ chức cộng đồng và tôn giáo của người Việt tỵ nạn CS, có sẵn một đội ngũ tuyên truyền xuyên tạc để phát tán những lời vu khống của họ. Khi niềm tin đồng bào bị lung lay bởi những chiến dịch xuyên tạc sự thật đó thì các cộng đồng chống cộng sẽ bị suy yếu. Và nếu như không có những người bạn ở Mỹ kể rõ sự tình thì hẳn nhiên những người ở xa không có thì giờ theo dõi tình hình tất phải đặt những câu hỏi trong đầu và từ đó có thể mất niềm tin nơi những người bị cáo buộc oan ức.

Qua ba vụ kiện nêu trên, chính nghĩa của Cộng đồng các nơi vẫn thắng là nhờ vào sự trưởng thành về ý thức công bằng và tinh thần đoàn kết của đồng bào tại đó, cũng như của các hội đoàn và đồng bào ở các nơi khác quyết tâm không bỏ rơi những người đang ăn cơm nhà vác ngà voi hầu bảo vệ thành trì cộng đồng ở hải ngoại. Chính nghĩa lá cờ vàng ba sọc đỏ ở những nơi đó vẫn tiếp tục ngạo nghễ bay được là nhờ hành động cụ thể hỗ trợ tài chánh cho những người bị cáo buộc có cơ hội được giải bày trước tòa.

Trông người rồi ngẫm chuyện của cộng đồng người Việt Tỵ Nạn tại Úc châu của chúng ta. Sau việc BCH Cộng đồng người Việt Tự do Victoria kêu gọi đồng bào biểu tình phản đối cuộc triển lãm Impressive Vietnam tại Crown Casino vào tháng 2/2009, mà theo CĐ đã phá vỡ ý đồ văn hoá vận của CSVN, CĐ đã khám phá ra một thành viên của CĐ đã cung cấp tin tức sai lạc cho Crown Casino về mục đích của cuộc biểu tình và đã yêu cầu đương sự ra trình bày tại một phiên họp khoáng đại của CĐ với sự hiện diện của 60 hội đoàn, đoàn thể ở Melbourne. Nhưng đương sự đã không đến mà sau đó còn kiện về tội phỉ báng ông Nguyễn Thế Phong là đương kim Chủ tịch CĐNTVTD Liên bang Úc châu, cựu chủ tịch CĐNVTD-VIC và cũng là người đã đứng mũi chịu sào tổ chức những cuộc biểu tình chống cộng suốt mấy năm qua. Không ai quên được vai trò của CĐNVTD Úc châu trong chiến thắng cờ vàng thật vẻ vang nhân dịp Đại hội Giới trẻ Công giáo Thế giới năm 2008. Không ai phủ nhận được tầm quan trọng của biến cố ấy giữa khi CSVN liên tiếp tung ra những cuộc đàn áp tôn giáo mà tất cả chúng ta đều biết đến.

Kể từ khi ông Nguyễn Thế Phong bị kiện, những truyền đơn hay những poster với nội dung nói xấu ông bỗng nhiên được phát tán hoặc dán ở những khu phố chợ Việt tại Melbourne, đồng thời những lời rỉ tai tiêu cực cũng ngày càng lan ra. Thậm chí bây giờ có một vài người nói với tôi: "Tôi không góp tiền cho quỹ Công lý vì có người nói xấu về ông Phong". Tại sao chúng ta lại nhẹ dạ nghe theo những lời đồn đại đó mà không tin tưởng vào sự công minh của nền luật pháp nước Úc? Ở một xã hội tiến bộ, chúng ta đều hiểu rõ nguyên tắc "một người được xem là vô tội cho tới khi người đó bị xử là có tội" (innocent until proven guilty). Đấy là luật pháp của xã hội văn minh nơi chúng ta đang sống và là cách hành xử của một xã hội nhân bản mà tất cả chúng ta, khi bỏ nước ra đi, vẫn hằng ao ước cho đất nước mình.

Nhưng nói như thế có nghĩa chăng là chúng ta sẽ thờ ơ, khoanh tay đứng nhìn, chờ đợi xem phán quyết của toà án là gì? Cũng không thể được, bởi vì nếu không có tiền hầu toà thì coi như CĐNVTD-VIC cùng ông Chủ tịch Nguyễn Thế Phong sẽ không thể có cơ hội tự biện minh trước tòa. Phải hiểu rõ là CĐNVTD-VIC và ông Phong bị người ta cáo buộc. Nếu không có tiền ra toà thì làm sao chứng minh được là mình không có lỗi? Không có gì oan ức cho bằng một tổ chức hay một cá nhân bị coi như là phạm lỗi chỉ vì mình không đủ phương tiện để tự bênh vực.

Và đó là lý do tại sao quỹ mà CĐNVTD-VIC lập ra mới lấy tên là "1 Đồng Cho Công Lý". Thưa phải, CÔNG LÝ. Công lý cho người bị cáo buộc. Nếu chúng ta căm phẫn khi nhìn thấy Linh mục Nguyễn Văn Lý bị công an CSVN bịt miệng trước toà án Cộng sản, thì chúng ta cũng không thể cầm lòng để cho một tổ chức cộng đồng chính danh của người Việt tỵ nạn chúng ta, cùng một người đã hết lòng phục vụ cho cộng đồng của chúng ta, bị bịt miệng bởi vì thiếu sự hỗ trợ của chúng ta. Sự đóng góp của chúng ta cho chiến dịch "1 Đồng Cho Công Lý" quan trọng là vì vậy.

Tôi thiển nghĩ, giả sử CĐ Victoria và ông Nguyễn Thế Phong không có tiền ra hầu toà mà bị hàm oan, thì lương tâm của chúng ta sẽ bị cắn rứt đến thế nào? Và ai sẽ là kẻ ngồi cười khoái trá? Xin thưa, một vài người, trong đó chắc chắn là có Cộng sản Việt Nam. Làm sao chúng ta có thể để cho điều này xảy ra? Vì vậy mà tôi tin rằng đồng bào tại Úc đã trưởng thành và sẽ hành động không thua gì đồng bào tại Hoà Lan, Hamburg hay Mỹ.

Từ mấy năm qua, đồng bào Úc châu nói riêng và cộng đồng hải ngoại nói chung không ai mà không hãnh diện về những thành quả đấu tranh mà CĐNVTD Úc châu và Victoria đã đạt được, từ chiến thắng VTV4, những biểu tình đập gãy ý đồ văn hoá vận của Nghị quyết 36, những cuộc "dàn chào" rầm rộ khiến lãnh đạo CSVN phải chui vào cửa hậu mà lánh mặt, cho đến cuộc biểu dương thật đáng tự hào nhân Đại hội Giới trẻ Thiên Chúa giáo. Chúng ta nỡ lòng nào làm ngơ khi những người đang ăn cơm nhà vác ngà voi cho chúng ta bị gặp khó khăn?

Nhìn rộng hơn ra ngoài địa bàn Victoria, hẳn chúng ta thấy rõ cuộc chiến gay go đang diễn ra khi CSVN tung ra những số tiền to lớn nhằm phá sập cộng đồng của chúng ta tại nhiều nơi. Nếu những cộng đồng đó, vì lý do nội tại hay vì bị tấn công, gặp khốn đốn thì chắc chắn tiềm năng chống cộng của người Việt sẽ bị suy yếu. Khi một nơi bị suy yếu thì sẽ kéo theo chung những nơi khác, và do đó những chuyện xảy ra ở Victoria - hay ở bất cứ nơi đâu - không chỉ là chuyện của Victoria mà phải là chuyện của tất cả chúng ta. Đã đến lúc mỗi cá nhân người Việt tỵ nạn ở hải ngoại cần tỏ rõ thái độ quyết liệt của mình.

Với dân số trên ba triệu người Việt tỵ nạn ở hải ngoại, chỉ cần mỗi người trong chúng ta sẵn sàng bỏ ra "1 Đồng Cho Công Lý" để bảo vệ thành trì cộng đồng ở khắp nơi thì không một thế lực thù địch nào có thể thắng được chúng ta.

Trong cơn hoạn nạn, hãy thương yêu mà đùm bọc lẫn nhau. Nếu chúng ta không làm chuyện này thì không ai khác sẽ làm được cho chúng ta.

Nam Dao


===

Trích cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Văn Bon, Chủ tịch CĐNVTD-VIC về cuộc Vận động gây Quỹ pháp lý tại Victoria, do Nam Dao thực hiện

Về những sự kiện pháp lý chung quanh vụ kiện


Ông Nguyễn Văn Bon: Kính thưa Chị, vì lý do pháp lý, rất tiếc chúng tôi không thể có ý kiến hay đi vào chi tiết của những vụ kiện vào thời điểm này ngoài việc sơ lược là:

Một cá nhân trong cộng đồng đã đệ đơn kiện ông Nguyễn Thế Phong, Cựu chủ tịch CĐNVTD-VIC (nhiệm kỳ 2007-09) tại tòa Trung thẩm Victoria (County Court) với lời cáo buộc rằng ông Chủ tịch CĐNVTD-VIC đã tuyên bố cá nhân này là cộng sản và đánh phá cộng đồng. Phiên tòa sẽ được xử vào tháng 3 năm 2010, thể theo luật sư cho biết phí tổn của tòa án có thể lên đến hơn $6,600 một ngày và có thể kéo dài đến 7 hoặc 10 ngày.

Một số cá nhân khác và cá nhân đang kiện ông Nguyễn Thế Phong tại tòa Trung thẩm cũng đệ đơn tại tòa Sơ thẩm Victoria (Magistrate Court) cáo buộc rằng Ban chấp hành CĐNVTD-VIC do ông Nguyễn Thế Phong làm chủ tịch đã tham lũng công quỹ của cộng đồng. Nội vụ đang được phân xử tại tòa Sơ thẩm với một phiên tòa vào trung tuần tháng 2 năm 2010.

Đứng trước sự việc nêu trên, Cộng Đồng chúng ta buộc phải hầu tòa và chống lại những cáo buộc mà nguyên đơn đã đưa ra. Ban chấp hành chúng tôi và Ủy ban Pháp lý vì thế đã ra thông báo thiết tha kêu gọi sự đóng góp và hỗ trợ của đồng bào tại Victoria hầu trang trải cho những luật phí to lớn này.

Chúng tôi một lần nữa khẳng định rằng: Ông Nguyễn Thế Phong và Ban chấp hành do ông lãnh đạo đã hành xử đúng với những gì Nội quy CĐNVTD-VIC đòi hỏi và cho phép trong cương vị Chủ tịch của ông.

Về bối cảnh đưa đến việc ông cựu Chủ tịch Cộng đồng Victoria bị thưa tòa Trung thẩm

Ô. Bon: Thưa chị, ông Nguyễn Thế Phong, đầu năm 2009, với tư cách là Chủ tịch Ccộng đồng đã triệu tập một phiên họp đặc biệt của Cộng đồng để tường trình và yêu cầu một cá nhân có liên hệ ra tại phiên họp này để trình bày và giải đáp những thắc mắc của các hội đoàn đoàn thể và đồng bào tại Victoria về một bằng chứng cho thấy cá nhân này đã cung cấp tin tức sai lạc cho Crown Casino về mục đích của cuộc biểu tình chống CSVN của CĐNVTD-VIC. Cá nhân này đã không đến dự nhưng sau đó cáo buộc rằng ông Chủ tịch CDNVTD-VIC đã mạ lỵ và vu khống ông ta là cộng sản, là tay sai của CSVN và đánh phá cộng đồng chống Cộng. Nội vụ đã trải qua giai đoạn hòa giải nhưng không đi đến kết quả và cho đến ngày hôm nay nguyên đơn vẫn tiếp tục khởi tố và ông Nguyễn Thế Phong, hành xử trong cương vị chủ tịch của CĐNVTD-VIC, sẽ phải ra tòa Trung thẩm vào tháng 3 năm 2010 tới đây, thưa chị.

Về phiên tòa Sơ Thẩm

Ô. Bon: Cá nhân kiện ông Nguyễn Thế Phong tại tòa Trung thẩm và hai cá nhân khác cũng đồng thời nộp đơn theo hình thức dân sự (civil matter) tại tòa Sơ thẩm Victoria cáo buộc Ban chấp hành Cộng đồng người Việt Tự do đã tham lũng công quỹ và xử dụng tiền cộng đồng trái phép. Ban chấp hành chúng tôi và Cộng đồng đã chính thức ủy nhiệm cho ông Nguyễn Thế Phong đại diện cho Cộng đồng trong vụ này, vì ông là người lãnh đạo BCH-CĐ trong những khoản thời gian mà nguyên cáo cáo buộc. Nội vụ hiện còn đang tiến hành tại tòa Sơ thẩm Victoria thưa chị và Ban Chấp Hành chúng tôi đã và đang hợp tác một cách tích cực và trung thực với những gì Tòa án đòi hỏi, hầu làm sáng tỏ những lời cáo buộc của nguyên đơn.

Về cách đóng góp cho Cộng đồng trong việc này

Ô. Bon: Các hội đoàn đoàn thể và đồng hương tại Victoria muốn đóng góp vào Quỹ "$1 Cho Công Lý" này của CĐVTD-VIC có thể đóng góp qua văn phòng cộng đồng tại 214 Nicholson St, Footscray 3011 hoặc gởi trực tiếp vào trương mục của Quỹ Pháp lý Cộng đồng với chi tiết như sau:

Ngân hàng: Commonwealth Bank of Australia
Tên trương mục: VCA-VIC Uy Ban Phap Ly

Số trương mục: (063020 BSB) 10395572


http://www.lyhuong.net/viet/index.php?option=com_content&view=article&id=2121:2121&catid=37:bandoc&Itemid=56

---

Saturday, February 06, 2010

Thursday, February 04, 2010

Hoà Lan: Đêm hội ngộ mùa Xuân Canh Dần 2010

Đêm hội ngộ mùa Xuân Canh Dần 2010

Cội mai già vàng rực một góc sân khấu, nhạc xập xình cùng tiếng hát bay bỗng của ca sĩ, bóng người lướt đi trên sàn nhảy. Ngoài kia mùi bánh tét, bánh chưng xen lẫn các món ăn truyền thống khác. Tất cả tạo ra một bầu không khí tươi vui náo nhiệt của Tết Canh Dần mà Cộng Đồng năm nay tổ chức.

Năm nay Cộng Đồng Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hoà Lan (CDVNTNCS/HL) tổ chức hội Xuân thật chu đáo. Chương trình văn nghệ phong phú với những tiếng hát một thời được tuyển chọn, bên cạnh ban nhạc Rạng Đông đã vang danh trong lòng người hâm mộ. Đặc biệt chương trình năm nay có sự hiện diện của vũ đoàn Lạc Hồng đến từ Đan Mạch, đây là vũ đoàn của cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng Sản tại Đan Mạch được mời đến giúp vui cho đồng hương, đã làm cho chương trình văn nghệ thêm phần phong phú. Đó là chưa kể người MC với tài điều khiển chương trình một cách sống động va dí dỏm làm tăng thêm phần hào hứng cho người tham dự.

Anh Tư với nụ cười rạng rỡ nói với tôi: “Bão tuyết như dzầy, tưởng ít người đi, ai dzè lại đông dzui dzữ dzậy”. Đúng như vậy, năm nay thời tiết lạnh, tuyết rơi kéo dài nhiều hơn mọi năm, thế mà BTC không ngờ đồng hương hội tụ về Arnhem với số lượng ngoài dự định.

Tết nhất thì phải đi liền với cái ăn, cái uống. Bên kia cách nhau một làn kính mỏng, trong hàng lang nào là bánh tét, bánh chưng, chè, hột vịt, bánh mì, đồ nhậu ; lại thêm cạnh đó là bàn táp bia và nước ngọt. Đồng hương nếu điều kiện tài chánh cho phép, thì tương đối có đủ sự chọn lựa cho một đêm hội ngộ vui Xuân do CĐ tổ chức. Đó là chưa kể đến hàng phở Cần nổi tiếng năm nào cũng hiện diện, nằm khuất phía trong.

Trong cái không khí ngây ngây, rộn rã tiếng cười đùa của một ngày hội lớn, thế nào ta cũng chợt bắt gặp một khuôn mặt quen thuộc từ lâu, nay mới gặp. Có gì thú cho bằng lâu ngày gặp lại bạn xưa. Những thăm hỏi về gia đình, sức khỏe, công việc làm ăn, học hành con cái và tùy người để thấy rằng mình lớn thêm một năm hay mình già đi một tuổi… Những em bé chạy nhảy tung tăng, những chàng trai thiếu nữ đang lớn đầy sức sống, bên cạnh những mái đầu bạc. Tất cả tạo nên một bức tranh sống động cho ngày hội Xuân, một năm chỉ có một lần.

Trên đường về nhà, tuyết lại rơi một màu trắng xóa. Nhưng tôi chỉ thấy màu vàng hoa mai trộn lẫn với vườn cải hoa vàng của thời xa xưa tuổi nhỏ, màu đỏ bao lì xì trộn lẫn với màu xác pháo và màu xanh bánh tét trộn lẫn với màu xanh của những cánh đồng lúa non trải dài .. trải dài … để rồi biến thành cái mênh mông của màu tuyết trắng.

Cái gì đã nối kết những hình ảnh màu sắc đó, nếu không phải ta nhớ về quá khứ để nhận ra rằng đời sống hiện tại, tương lai của chúng ta là ở nơi đây. Và cũng để thấy thêm được rằng, nếu người Việt tha hương chúng ta biết tìm đến với nhau, chắc chắn chúng ta sẽ tạo nên một cái Tết quê hương đậm đà, ấm cúng giữa bầu trời băng giá này, phải không bạn.

Nguyễn Liên Hiệp























---